Home » Kỹ Năng
EQ, SQ, CQ - những chỉ số của người thành đạt
Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014
Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ
quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa
bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không
phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
|
Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient
- EQ). Thực tế cho thấy, cảm xúc chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn
cả logic toán học. Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần
kinh, người ta đã chứng minh được lý trí, mà đại diện là trí thông minh,
không có ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần
neocortex (phụ trách suy luận trên não) là nhạc trưởng, nó chỉ đạo,
phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa.
EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản
thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà
Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người.
Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh
và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi, luôn tìm
được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn
những "thiên tài đơn độc" (mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể
trong làm việc việc hết sức quan trọng). Sau đó, nhà tâm lý học Daniel
Goleman xác định cụ thể và có hệ thống hơn trong tác phẩm của ông mang
tên Emotional Intelligence.
EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai.
EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai.
Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm,
đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng,
vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những
cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan,
tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã hội.
Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
SQ - Thông minh xã hội
Rộng hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự
nhạy bén trong nhận thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động
điều tiết cách ứng xử của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học
phát triển thành một khái niệm gọi là Thông minh xã hội (Social Intelligence, xác định bằng chỉ số thông minh xã hội Social Quotient
SQ). Khái niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác
định mức độ hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh
giá đúng người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá
nhân trước mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể... Đa số câu
hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenek đưa ra
trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như chiếc chìa
khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác đều cao,
cá nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội.
CQ - "cái vỗ nhẹ" vào vùng não phải
Bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa
vào những cái có sẵn mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát
triển ấy ở mỗi người một khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể
là những bước đột phá, những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được
thể hiện. Có những người cho rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa
người này với người khác và chính nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó
là lý do để người ta đưa ra một khái niệm mới, một tiêu chí đánh giá
nữa, được gọi là Trí thông minh sáng tạo (Creative Intelligence
và tương ứng CQ). Xét cho cùng, chính trí thông minh sáng tạo mới làm
nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ, mới xây dựng được một kho
tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy sự tiến hóa của nhân
loại.
Nhà tâm lý học người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa
ra khái niệm này. Ông nghiên cứu vùng khu trú của những suy nghĩ sáng
tạo và định nghĩa một cách đơn giản: "Khả năng sáng tạo là cái loé sáng
vỗ nhẹ vào vùng não phải để làm bật ra những ý tưởng". Nói như vậy có
nghĩa là tuy phần nào mang tính bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có
trong tư duy mỗi người và hoàn toàn có thể "rèn luyện" được. Adler đã
chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu quả của não bộ bằng cách tập suy nghĩ,
tìm ra những cái phi thường, cái "loé sáng" trong cái bình thường và đề
xuất rất nhiều cách để tạo ra "cái vỗ nhẹ" đó. Cũng chính vì thế, mục
tiêu giáo dục ở các nước tiên tiến là không chỉ cung cấp kiến thức đào
tạo mà tạo ra những người biết suy nghĩ sáng tạo. Gần đây, người ta đã
xây dựng cả một ngành khoa học mang tên 'Tư duy sáng tạo" nhằm mục đích
này.
PC - Say mê quyền lực
Là bất cứ việc gì cũng chỉ thành công nếu toàn tâm toàn ý dành cho nó. Để đặc trưng cho phẩm chất này người ta đưa ra khái niệm Chỉ số say mê (Passion Quotient, viết tắt PQ) và cùng với nó là Chỉ số nghề nghiệp (Career Quotient
CQ). Sự say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa
chọn, phù hợp với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của
mình theo như phân loại. GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng
Ấn Độ - cho rằng những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản
quý của một cơ quan, tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là: yêu
thích công việc mình làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất
cứ việc gì có liên quan, thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu
đáo, chứ không làm họ nản chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra
cũng thường xuyên suy nghĩ về công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm
ra những giải pháp độc đáo, sáng tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ
làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian. Những phẩm chất đó
khiến họ thành công trong nghề nghiệp của mình.
Nếu ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một
doanh nhân say mê làm giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị
say mê quyền lực, điều người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì
quyền lợi mà quyền lực mang lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ
lãnh đạo của Liên Xô, đã đưa tính chất "ham địa vị" như một tiêu chuẩn
chọn lựa, xét về mặt tích cực.
Nhiều người còn đánh giá phẩm chất cá nhân theo Chỉ số đạo đức (Moral Quotient, MQ). Vấn đề này không cần bàn nhiều vì đã được thừa nhận chung. Bao giờ cụm từ "có đức có tài" cũng đi liền với nhau.
(Theo Khoa học và Đời sống)
Bình Luận
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét